Ngâm chân chữa chứng mất ngủ

Khi lâm vào tình trạng này, thông thường người ta hay sử dụng các thuốc trấn tĩnh, an thần của y học hiện đại. Nhưng, không hiếm khi, các thuốc này cũng tỏ ra bất lực, đó là chưa kể đến những tác dụng không mong muốn mà chúng đem lại. Lúc này, nhiều khi, những biện pháp giàu tính tự nhiên của y học cổ truyền như xoa bóp, bấm huyệt, tập luyện khí công dưỡng sinh... lại tỏ ra có vai trò khá hữu hiệu, trong đó không thể không kể đến phương pháp ngâm chân trước ngủ mà Đông y gọi là Dược dục liệu pháp. Có thể dẫn ra một số công thức cụ thể như sau:

Công thức 1: Nước ấm tự nhiên 1 chậu, ngâm cả hai chân trong 20 phút, mỗi ngày 1 - 2 lần nhưng nhất thiết phải có 1 lần trước khi ngủ tối, đúng như cổ nhân đã nói: “Sau ăn 300 bước, trước ngủ một chậu ngâm”. Tùy theo điều kiện thời tiết và tính mẫn cảm của từng người, nhiệt độ nước ngâm vào khoảng từ 38 - 430C.

Nước sắc ngô thù du làm cho hai tạng Tâm và Thận giao hòa giúp cải thiện giấc ngủ sâu.

Nước sắc ngô thù du làm cho hai tạng Tâm và Thận giao hòa giúp cải thiện giấc ngủ sâu.

Công thức 2: Ngô thù du 20g, dấm gạo lượng vừa đủ. Sắc kỹ ngô thù du lấy nước bỏ bã rồi hòa thêm dấm gạo, ngâm cả hai chân trong 30 phút, mỗi ngày 1 lần trước khi ngủ tối. Theo y học cổ truyền, công thức này có tác dụng làm cho hai tạng Tâm và Thận giao hòa được với nhau, từ đó làm cho giấc ngủ có chất lượng hơn.

Công thức 3: Từ thạch 20g, chích ngũ gia 20g, phục thần 15g, ngũ vị tử 10g. Trước tiên, sắc từ thạch trong 30 phút rồi cho các vị thuốc khác vào sắc tiếp 30 phút nữa là được, bỏ bã lấy nước ngâm chân trong 20 phút, mỗi tối 1 lần kết hợp với việc dùng nước thuốc xoa nhiều lần lên vùng trán và thái dương.

Công thức 4: Từ thạch 20g, sinh long cốt 15g, cúc hoa 15g, hoàng cầm 12g, dạ giao đằng 20g. Tất cả các vị đem sắc lấy nước ngâm chân mỗi tối trước khi đi ngủ trong 30 phút. Công thức này rất thích hợp cho những người bị mất ngủ kèm theo đau đầu, hay có cơn bốc hỏa, trong ngực bụng cồn cào, bức bối không yên...

Công thức 5: Đan sâm 20g, bạch truật 15g, hoàng liên 12g, viễn chí 10g, toan táo nhân 15g, trân châu mẫu 10g. Tất cả các vị thuốc đem sắc kỹ lấy nước ngâm chân trong 30 phút, mỗi ngày 1 lần trước khi ngủ tối.

Thảo quyết minh.

Thảo quyết minh.

Công thức 6: Lạc tiên 20g, lá vông 20g, thảo quyết minh 20g, hồng hoa 15g. Tất cả đem sắc kỹ lấy nước ngâm chân trong 30 phút, trước khi đi ngủ. Cũng có thể dùng dịch thuốc để uống thay nước hàng ngày.

Công thức 7: Toan táo nhân 20g, mẫu lệ 20g, thạch quyết minh 20g, long cốt 20g. Tất cả đem sức lấy nước ngâm chân 30 phút hàng ngày trước khi đi ngủ.

Để làm tăng công dụng tĩnh tâm an thần, trong khi ngâm chân nên kết hợp với thư giãn, toàn thân thả lỏng, thở đều, nhẹ và sâu. Sau đó, có thể dùng các ngón tay day ấn vùng thái dương, miết vùng trán và xoa xát vùng gáy trong vài phút. Đương nhiên, việc điều chỉnh chế độ làm việc và nghỉ ngơi, chủ động điều tiết đời sống tình cảm, hạn chế đến mức thấp nhất các yếu tố làm căng thẳng thần kinh... là không thể thiếu được.

ThS. Hoàng Khánh Toàn

Cá khoai

Theo Đông y, cá khoai vị ngọt, tính mát, không độc, tác dụng bổ hư, mát huyết, nhuận tràng, ích ngũ tạng... Ăn rất tốt với người gầy nóng, huyết hư, vị nhiệt miệng khô khát, táo bón, ho khan, đái tháo đường... Sau đây là một số món ăn thuốc từ cá khoai:

Canh cá khoai nấu rau cải cúc: cá khoai, cải cúc, gừng, hành gia vị vừa đủ nấu canh ăn. Công dụng: bổ phế, nhuận táo, chỉ khái… Chữa phế nhiệt ho khan, viêm.

Lẩu cá khoai tốt cho người mệt mỏi đau đầu, chóng mặt.

Lẩu cá khoai tốt cho người mệt mỏi đau đầu, chóng mặt.

Cá khoai nấu rau cần: cá khoai, cà chua, rau cần ta, thì là, mùi tàu gia vị vừa đủ nấu canh ăn. Công dụng: bổ huyết, mát huyết, dưỡng tỳ vị… Chữa chứng nội nhiệt khó lên cân, đau đầu chóng mặt, tăng huyết áp, ho khan, đại tiểu tiện không thông.

Lẩu cá khoai: cá khoai, xương lợn, giá đậu, dứa, cà chua, ớt, đậu phụ, ớt, gia vị vừa đủ nấu lẩu ăn. Rau ăn lẩu là cải cúc, rau muống. Công dụng: bổ hư, mát huyết, sinh tân… Chữa đái tháo đường, sắc mặt hình thể khô khan, người mệt mỏi, đau đầu chóng mặt.

Canh chua cá khoai: cá khoai, dứa, cà chua, dọc mùng, giá đậu, rau ngổ, hành lá, ớt, gia vị vừa đủ nấu canh ăn. Công dụng: bổ huyết, thanh nhiệt, hạ khí... Trị táo bón, tiểu vàng ít, đau đầu chóng mặt, tăng huyết áp và các chứng liên quan nóng nhiệt.

Cháo cá khoai: cá khoai, gạo mới, đậu xanh, hành, ngò mùi, tiêu, mắm muối gia vị vừa đủ. Cá khoai tươi làm sạch cắt khúc, khi cháo chín bỏ cá vào, nêm gia vị ăn nóng. Công dụng: bổ hư, dưỡng tỳ vị, sinh tân… Thích hợp người già ăn kém, mệt mỏi, chứng phù do suy dinh dưỡng, trẻ em còi cọc chậm lớn.

Lương y Phan Thị Thạnh

Món ăn thuốc từ quả thanh long

là món ăn vị thuốc phòng trị bệnh tiểu đường, thống phong, huyết áp, mập phì...

Theo dược tính hiện đại, trong 100g trái thanh long, phần ăn được cung cấp 85 - 87g nước; 1,1g đạm; 0,0g chất béo; 11,2g đường chung; 0,59g tro; nhiều vitamin và chất khoáng: 0,011mg vitamin A; 3mg vitamin C; 2,8mg vitamin PP; 10,2mg canxi; 6,07mg sắt; 27,5mg photpho; 27,2mg kali; 2,9 mg natri; cung cấp 40 - 60 calo. Quả chín thanh long chứa nhiều chất nhầy pectin, chất xơ hoà tan và chất xơ không tan cellulose đều là chất có tác dụng phòng trị bệnh táo bón, béo phì, xơ vữa động mạch, viêm ruột kết... rất hiệu quả. Thanh long còn là trái cây có chứa lượng đường thấp, giàu ma-nhê, nhiều vitamin và khoáng chất, lại ít năng lượng (40 - 60 calo) sinh nhiệt thấp, vậy nên ăn thanh long thường xuyên rất tốt cho người tiểu đường, người mập phì nóng nhiệt, đang cần giảm cân.

Sau đây là một số món ăn bài thuốc dược thiện phòng trị bệnh từ quả thanh long dễ chế biến sử dụng ăn rất ngon phù hợp với nhiều lứa tuổi.

Chữa táo bón kinh niên: Thanh long 200g, đu đủ chín 50g, thêm sapoche 50g, chuối 50g cắt thành miếng cho vào ly cho thêm đường cát, hoặc sữa cho tủ lạnh ăn ngày 1 - 2 lần.

Chữa tiểu đường: Thanh long 200g, ổi chín 100g, xay sinh tố hoặc ép nước uống ngày vài lần.

Chữa gan nhiễm mỡ, thừa cân béo phì: Thanh long 200g, dứa chín 100g, làm sinh tố hoặc ép nước uống nhiều ngày.

Chữa bệnh thống phong, gút: Thanh long 100g, dưa leo 100g cắt nhỏ cho thêm đường cát ăn hoặc ép nước uống nhiều ngày.

Chữa tăng huyết áp, đau đầu chóng mặt “do can hoả vượng”: Thanh long 200g, dưa hấu chín 100g cắt lát, dâu tây 50g xắt lát, làm sinh tố hoặc ép nước uống ngày 1 - 2 lần.

Chữa viêm đại tràng rối loạn tiêu hoá: Thanh long 100g thái thành miếng. Yaourt 1 hũ cho vào ly trộn thêm ít đá ăn ngày vài lần.

Chữa ho khan (viêm phế quản): Hoa thanh long tươi 4 - 5 cái tươi nấu canh với thịt heo hoặc sắc uống.

Lưu ý: thanh long có vị chua tính mát nên người tỳ vị hư hàn, đang đi cầu phân lỏng, đầy bụng, dùng hạn chế hoặc không nên dùng.

Lương y: Phan Thị Thạnh

Món ngon

Cá mực giá trị dinh dưỡng cao, rất tốt cho người thiếu máu, chóng mặt ù tai, di tinh, xuất tinh sớm, phụ nữ kinh nguyệt không đều, ít sữa...

Theo Đông y, cá mực vị ngọt mặn, tính bình; vào kinh can, thận, tỳ. Có tác dụng tư âm, dưỡng huyết, kiện tỳ, lợi thủy, chỉ huyết, ôn kinh mạch. Dùng tốt cho người bị phù nề, phong thấp, trĩ lậu, bế kinh thống kinh, huyết trắng, động thai dọa sẩy. Xin giới thiệu một số món ăn thuốc từ cá mực.

Cá mực hầm bí đao, đậu đỏ: Cá mực khô 2 - 3 con, bí đao 500g, đậu đỏ nhỏ hạt 100g. Cá mực ngâm mềm, rửa sạch, thái lát; bí đao gọt bỏ vỏ mỏng và ruột, cho gia vị nhưng không cho muối mắm, hầm chín nhừ, cho ăn liên tục đợt 3 - 5 ngày. Dùng cho các trường hợp viêm thận cấp, phù nề, cổ trướng xơ gan, ứ tắc sữa.

Cá mực hầm đào nhân: Cá mực khô 1- 2 con, đào nhân 15g. Cá mực ngâm mềm, rửa sạch, thái lát, thêm gia vị nấu nhừ, ăn liên tục đợt 3 - 5 ngày. Dùng cho các trường hợp bế kinh, thống kinh.

Gà hầm cá mực: Gà mái tơ 1 con, mực 2 con. Gà làm sạch, thái lát lớn, mực khô ngâm mềm, rửa sạch, thái lá; thêm gia vị hầm nhừ. Dùng cho phụ nữ, cơ thể suy nhược, khí hư huyết hư, sản phụ ít sữa tắc sữa.

Mực hầm đương quy: cá mực khô 2-3 con, quy đầu hoặc quy thân 30g. Mực ngâm mềm, rửa sạch, thái lát; quy rửa sạch, thái lát mỏng. Nấu nhừ. Dùng cho phụ nữ huyết hư thiếu máu, kinh nguyệt không đều, kinh nguyệt ít.

Canh súp mực thịt lợn: cá mực 2 con, thịt lợn nạc 100g, tôm nõn 100g, củ mài 30g, hạt sen bỏ tâm 30g. Mực làm sạch thái lát, thịt heo thái miếng, tôm nõn ngâm rửa, thêm gia vị và nước; nấu nhừ. Dùng rất tốt cho người mệt mỏi suy nhược, mất ngủ, ngủ mê.

Cá mực hầm đào nhân: cá mực khô 2 con, đào nhân 10g. Mực ngâm mềm làm sạch thái lát, đào nhân bóc vỏ rửa sạch cùng cho trong nồi nhôm, thêm gừng tươi, hành, muối, nước lượng thích hợp, đặt trên bếp đun to lửa cho sôi, đun nhỏ lửa cho chín nhừ. Cho ăn thường ngày, liên tục một đợt 7-10 ngày. Dùng cho các trường hợp huyết hư thiếu máu, kinh nguyệt thất thường, lượng ít.

Mực hầm gừng nướng: cá mực tươi khoảng 300g, gừng nướng 6g thái lát, hai thứ cùng cho vào nồi, đổ nước nấu chín, thêm bột gia vị. Ngày ăn 1 lần, liên tục 3-5 ngày. Dùng cho phụ nữ kinh nguyệt kéo dài nhưng ít, cơ thể suy nhược thiếu máu.

Lương y Thảo Nguyên

3 bài thuốc cổ chữa bệnh mùa nóng

Theo Đông y, mùa hè hay mùa trường hạ do mưa nhiều, nắng nhiều sinh ra chứng thấp nhiệt, làm cơ thể mệt mỏi, chân tay rã rời, tinh thần giảm sút, có khi sốt, đau đầu, khát nước, tự ra mồ hôi, tiểu tiện vàng, có khi đỏ, miệng khô, lưỡi vàng, đầu lưỡi đỏ, mạch hư. Bài viết dưới đây xin giới thiệu bài thuốc có giá trị chữa bệnh trong mùa nắng nóng để bạn đọc tham khảo và áp dụng.

​Bạch phục linh.

Bài Thanh thử ích khí thang: nhân sâm 8g, bạch truật 12g, thanh bì 8g, mạch môn đông 8g, quất hồng bì 8g (thanh bì là vỏ quả quýt đang xanh, quất bì là vỏ quả quýt đã chín) hoàng kỳ 12g, thần khúc 8g, thăng ma 12g, hoàng bá 12g, thương truật 8g, cam thảo 6g, ngũ vị tử 6g, cát căn 12g, trạch tả 8g, đương quy 8g, khi sắc cho thêm sinh khương 8g, đại táo 2 quả. Ngày một thang, sắc uống chia 3 lần trong ngày, uống trước khi ăn.

Bài thuốc có tác dụng: thanh thử hóa thấp, ích khí, sinh tân dịch. Các y gia thời xưa cho rằng: Thời lệnh của thử khí bắt đầu từ hạ chí. Đến trường hạ thì có thêm cả thấp khí, bài thuốc này điều trị được tất cả chứng thử và chứng thấp.

Trong trường hợp thấp nặng hơn thử thì phải dùng bài Thanh táo thang để điều trị kết quả mới cao. Khi thấp nặng hơn thử thì bệnh nhân xuất hiện các triệu chứng như mắc chứng nuy quyết. Có nghĩa là từ eo lưng trở xuống đau mềm, vận động khó khăn. Đi đứng khó khăn, xiêu vẹo, chân bước tập tễnh.

Bài Thanh táo thang: hoàng liên 8g, mạch môn 8g, sinh địa 8g, trư linh 8g, hoàng bá (sao rượu) 8g, quy thân 8g, chích cam thảo 6g, thần khúc 8g, nhân sâm 12g, trư linh 12g, bạch phục linh 12g, thăng ma 12g, quất bì 6g, trạch tả 6g, bạch truật 6g, thương truật 15g, hoàng kỳ 16g, ngũ vị tử 6g. Ngày một thang, sắc uống chia 3 lần trong ngày, uống lúc đói khi thuốc còn nóng.

Bài Thanh thử ích khí thang và Thanh táo thang đều là các phương thuốc trị chứng thử thấp. Thanh thử ích khí thang dùng để điều trị chứng thử thịnh hơn thấp. Thử thường làm tổn thương khí cho nên sốt cao, khát nước nhiều, người mệt mỏi, tự ra mồ hôi, mạch hư cho nên lấy bổ khí làm chủ yếu. Còn phương Thanh táo thang là để trị chứng thấp nặng hơn thử. Những vị thuốc trong bài này phần nhiều nghiêng về thấm thấp và tả hỏa. Nếu thầy thuốc không có đầy đủ kiến thức mà đem những bài này sử dụng vào mùa đông xuân, khi bệnh nhân mắc chứng phong ôn đối với loại bệnh thủy kiệt, tủy khô làm bệnh càng biến chứng dẫn đến bệnh nhân mắc chứng cốt nuy hoặc bệnh không do thấp nhiệt có thể làm tổn thương tân dịch, bệnh càng nặng hơn.

TTND.BS. Nguyễn Xuân Hướng

Cách chữa phù sau sinh em béCách chữa phù sau sinh em béChữa phù do viêm thận bằng 2 bài thuốc đơn giảnChữa phù do viêm thận bằng 2 bài thuốc đơn giản3 bài thuốc quý chữa phù do tỳ hư3 bài thuốc quý chữa phù do tỳ hư

Thanh đại

Thanh đại chứa hợp chất glucozit (Indican), khi thủy phân cho glucoza và indoxyl; chất này nhanh bị ôxy hóa thành indigotin. Theo Đông y, thanh đại vị mặn, tính hàn; vào kinh can. Có tác dụng thanh nhiệt giải độc, lương huyết tiêu ban. Chữa các chứng can nhiệt, kinh giật, nhiệt khái đàm đặc, thấp chẩn lở mồm, huyết nhiệt phát ban, thổ nục, sang ung, quai bị. Theo nghiên cứu mới đây tại Đài Loan, bột thanh đại (indigo naturalis) rất hiệu nghiệm trong việc trị bệnh vảy nến (psoriasis). Liều dùng: 2-8g. Do vị thuốc khó tan trong nước nên thường làm thành thuốc bột hoặc cho vào thuốc thang.

Thanh đại (bột chàm) và ít băng phiến chế với nước ấm, bôi vào chỗ đau. Trị viêm tuyến mang tai cấp tính trẻ em (quai bị).

Thanh đại (bột chàm) và ít băng phiến chế với nước ấm, bôi vào chỗ đau. Trị viêm tuyến mang tai cấp tính trẻ em (quai bị).

Giải độc trị nhọt:

Bài 1: thanh đại 8g, thạch cao 16g, hoạt thạch 16g, hoàng bá 8g. Các vị nghiền mịn, trộn đều, thêm một lượng vaselin, đánh kỹ, bôi vào chỗ đau. Trị các bệnh ngoài da, sưng nóng, đau ngứa, chảy nước.

Bài 2: thanh đại và ít băng phiến chế với nước ấm, bôi vào chỗ đau. Trị viêm tuyến mang tai cấp tính trẻ em (quai bị).

Lương huyết, tiêu ban: Trị phát ban do nhiệt độc, huyết nhiệt gây thổ huyết, đổ máu cam.

Bài 1: thanh đại 8g. Uống với nước. Trị ban đỏ do nhiễm hàn.

Bài 2: thanh đại 12g, cáp phấn 12g. Nghiền bột mịn. Mỗi lần dùng 2-4g, uống với nước, ngày 2 lần. Trị ho ra đờm có máu do giãn phế quản. Nếu huyết nhiệt gây thổ huyết, chảy máu cam thì dùng thanh đại hoặc kết hợp với bồ hoàng, hoàng cầm.

Thanh nhiệt giải nắng:

Bài 1 - Bột Bích ngọc: thanh đại 63g, cam thảo 63g, hoạt thạch 63g. Nghiền chung thành bột, mỗi lần 12-30g. Sắc hoặc pha với nước. Trị cảm nóng, tiểu tiện ít mà đỏ.

Bài 2: thanh đại 12g, bạch phàn 24g. Nghiền thành bột mịn. Ngày 3 lần, mỗi lần 2g. Chữa viêm gan cấp và mạn tính.

Chữa viêm răng lợi, hầu họng:

Bài 1 - Thuốc cam xanh: bạch phàn 20g, thanh đại 80g, ngũ bội tử 20g, băng phiến 2g. Trị viêm lợi, ngứa nhức chân răng, sâu răng; chảy máu, cam miệng, cam mũi trẻ em.

Bài 2 - Thuốc cam tẩu mã: hoàng bá 12g, hoàng liên 16g, thanh đại 20g, đinh hương 12g, đại hồi 4g, nhân trung bạch 20g, bạch phàn 12g. Làm thuốc bột. Đắp chỗ lợi sưng đau. Ngày 3-4 lần.

Kiêng kỵ: Do thanh đại tính rất hàn nên không phải thực nhiệt thì không dùng.

Lương y Thảo Nguyên

Món ăn thuốc phòng chữa loãng xương

Về trị liệu, ngoài việc dùng thuốc, châm cứu, tập khí công dưỡng sinh, người xưa cũng sử dụng nhiều món ăn - bài thuốc độc đáo. Xin giới thiệu để bạn đọc tham khảo áp dụng.

Thể thận dương hư: người bệnh có biểu hiện đau lưng tê mỏi dọc xương hai chân, đứng lâu bệnh tăng, chân không ấm. Nên dùng các món:

Tôm xào bắp non: tôm lột 100g, bắp non 100g, đậu hà lan 50g, đậu rồng 50g, thêm gia vị dầu hào, bột nêm vừa đủ hầm ăn tuần vài lần.

Canh hến rau ngót: thịt hến 100g, rau ngót 150g, hành tím 2 củ, gia vị gừng nướng, tiêu bột nêm vừa đủ nấu canh ăn.

Ngọc dương tiềm thuốc: ngọc dương 1 cái 50g; thục địa, hoài sơn, sơn thù, đan bì, trạch tả, phục linh, đỗ trọng, cẩu kỷ mỗi vị 12g hoặc hơn; nhục quế 6g, phụ tử 6g, gia vị gừng hành vừa đủ tiềm ăn.

Ngoài ra, cần tăng cường ăn các món hầm xương động vật; các loại tinh hoàn gà, vịt, dê, bò và tắc kè, cá ngựa, tôm cua cá nhỏ đều tốt.

Thể thận âm suy: người bệnh có biểu hiện như đau mỏi các đầu khớp xương tay chân, người nóng trong, miệng khô tiểu vàng. Nên dùng các món sau:

Bún riêu cua: thịt cua đồng 100g, đậu phụ 50g, xương giò heo 100g, hành củ 20g, gia vị bột nêm mắm muối nấu chín, khi ăn múc ra tô cho bún, cho nhiều rau thơm, giá đậu ăn nóng.

Cật lợn xào hoa lý: cật lợn 100g thái lát, hoa lý 150g, rau hẹ 50g, thêm gia vị gừng mắm muối vừa đủ xào ăn.

Lẩu đuôi bò: đuôi bò 100g, củ cải 50g, khoai môn 50g, cà rốt 50g, rau mùng tơi 40g, thêm gừng, hành, gia vị vừa đủ nấu nhừ ăn.

Cật lợn hầm thuốc bắc: cật lợn 1 cái 60g bổ đôi làm sạch; hoài sơn, sơn thù, đan bì, trạch tả, phục linh, thục địa, đương quy, cẩu kỷ mỗi vị 14g hoặc hơn, thêm gừng, hành gia vị tiềm ăn.

Ngoài ra, tăng cường ăn bổ mát giàu canxi như đậu đen, mè đen, đậu mè ngũ cốc còn nguyên vỏ lụa và khoai lang, khoai sọ, khoai từ, trái cây như dâu, bơ, chuối...

Thể tỳ thận khi hư: người bệnh có biểu hiện khớp xương chân tay nhức mỏi tê lạnh, người nặng nề, vốn ăn ngủ kém. Nên dùng các món:

Gà ác tiềm hạt sen: gà ác 1 con làm sạch; hạt sen 40g; cẩu kỷ, nấm mèo, lá ngải tươi mỗi thứ 20g; thêm gừng, tiêu, gia vị, mắm muối vừa đủ hầm ăn.

Xương chân dê hầm đậu xanh: chân dê 4 cái nướng chín, làm sạch cắt khúc 200g, đậu xanh 100g, lá ngải 30g, hành tiêu, gia vị vừa đủ hầm ăn.

Lương y Phan Thị Thạnh